Hôm Nay Minh Ngọc Cũng Muốn Lật Lại Vụ Án

Chương 5



 

Ta đưa khăn tay lên, “thút thít” vài tiếng cho có lệ, rồi bất ngờ đổi giọng:

“Nếu Chu đại nhân muốn biết nguyên nhân cái chết của tướng công ta, chi bằng tự mình xuống đó hỏi thử xem?”

Không gian lập tức tĩnh lặng.

Thị vệ sau lưng Chu Yến Thanh lén đưa mắt nhìn biểu cảm của chủ tử. Không ngờ lại phát hiện, hắn chẳng những không nổi trận lôi đình như mọi khi, mà còn rất… bình tĩnh.

Thậm chí trong mắt còn có một tia “đúng là vậy mà”.

Thật lòng mà nói, những ngày qua ta đã sớm nắm rõ tính nết hắn. Một con lừa già cố chấp!

Giết phạm nhân không chút do dự, nhưng nếu không có chứng cứ xác thực, hắn sẽ quyết chẳng hàm oan người vô tội.

Thành ra ta cứ thoải mái mà trêu ghẹo hắn hết lần này đến lần khác. Nếu Chu Yến Thanh còn chưa quen, vậy hắn cũng quá kém rồi.

Vị “Diêm Vương sống” này tự xưng muốn phá hết án oan trong thiên hạ, lại khổ nỗi là một quân tử thật sự, nghe lời thiên hạ nói “trước cửa quả phụ chuyện thị phi nhiều” liền lặng lẽ trèo tường vào Hạ Lan phủ, lần nào đến thì mặt cũng lạnh như băng, nhưng khi đi thì mặt lại đỏ bừng.

Nếu không phải sau này hắn thật sự bị chọc tức đến mức không đến nữa, ta còn tưởng bản thân sắp được tái giá rồi.

“Không cần ta đích thân xuống đó hỏi, bản quan nhớ không lầm thì Hạ Lan phu nhân là muội muội của một thần y họ Tống.”

“Muốn khiến một người nhìn như chết vì dâm loạn, nhưng kỳ thực là bị đầu độc, e rằng… chẳng khó lắm đâu, nhỉ?”

Hắn gọi huynh trưởng ta là “thần y họ Tống”, khiến ta khẽ sững người.

 

Đã lâu lắm rồi, ta chưa từng nghe có ai khác gọi ba chữ “Tống thần y” như thế.

“Chu đại nhân đúng là người tài vây quanh.” Ta làm bộ kinh ngạc, đưa tay che miệng, giọng run run. “Thì ra phu quân ta bị người hạ độc mà chết sao? Ôi, tiểu nữ thật sự sợ quá đi!”

“……”

Chu Yến Thanh cạn lời.

Hạ Lan Thành đúng là chết vì trúng độc, nhưng độc dược đó là do chính tay ta điều chế, âm thầm nhỏ từng chút một vào người chàng suốt một năm trời.

Ta đã tốn biết bao tâm huyết, sao có thể để đám lang băm kia dễ dàng phát hiện ra?

Cho nên mấy lời Chu Yến Thanh vừa nói, chẳng qua là thử dò ý ta thôi.

Sớm đã nói rồi, ta, Tống Minh Ngọc, không biết hai chữ “chột dạ” viết như thế nào!

Ánh mắt chúng ta lặng lẽ giao nhau một hồi, cuối cùng vẫn là Chu Yến Thanh thất bại. Hắn hơi nheo mắt lại, ánh nhìn như dã thú săn mồi, nói:

“Tống Minh Ngọc, tốt nhất là đừng để bản quan phát hiện ngươi có tội.”

Hắn phất tay, đám người xung quanh lập tức dạt sang hai bên, nhường đường cho ta rời đi.

Lúc đi ngang qua hắn, ta làm như có lời muốn nói lại thôi. Chu Yến Thanh nhướng mày: “?”

Do dự một lúc, ta mới cất giọng có vẻ áy náy:

“Chu đại nhân, sau này ngài đừng hay nheo mắt như vậy nữa. Dễ sinh nếp nhăn lắm, lại còn ảnh hưởng đến thị lực.”

 

“Thêm vài năm nữa, chỉ sợ sẽ thành một lão già đầy nếp nhăn, mắt mờ như kẻ mù đó nha.”

“Tống Minh Ngọc!!!”

Ta như cá trạch trơn tuột, nhanh chóng chuồn lên xe ngựa, vội vàng giục Tiểu Đào:

“Lên đường mau! Mau lên!”

4

Gần đây, Trương Ngự sử vô cùng phiền não. Bởi vì… hậu viện của hắn ta đã bốc cháy.

Hắn ta sủng thiếp diệt thê, hôm nay thiếp thất hạ thuốc tránh thai cho chính thất, ngày mai lại là thiếp thất đầu độc thiếp thất khác…

Hắn ta cuối cùng cũng hiểu vì sao cả phủ Trương gia ngày nào cũng nồng nặc mùi thuốc bã, là vì mấy nữ nhân kia đang luyện thuốc trong nhà hắn ta.

Địch thủ một mất một còn với Trương Ngự sử thì hả hê ra mặt.

Bởi vì y vừa dâng tấu chương vạch trần hắn ta đến mức lạnh cả sống lưng.

Đối diện với sự chất vấn của Thánh Thượng, Trương Ngự sử chân run cầm cập, mồ hôi tuôn như mưa. Vừa về nhà liền lập tức giải tán toàn bộ hậu viện, hận không thể bắt Nguyễn nương lập tức sinh cho hắn ta một đứa con trai bụ bẫm.

May thay, tổ tông nhà họ Trương trên trời phù hộ, chưa đầy mấy tháng sau, trong bụng Nguyễn nương đã có tin vui.

Trương Ngự sử mừng rỡ như điên, đang lúc mở tiệc linh đình, say khướt cả người, thì bị Nguyễn nương kéo ra một góc, bảo hắn ta phải cảm tạ một người.

“Ai? Danh y Minh ư? Chưa nghe cái tên này bao giờ.”

Nhưng thôi kệ. Giờ hắn ta sắp có con trai rồi, thần y muốn bao nhiêu tiền, hắn ta đều bằng lòng bỏ ra.

 

Nguyễn nương lắc đầu: “Thần y không cần vàng bạc châu báu, chỉ muốn gặp một vị quý nhân.”

Nàng ấy đưa tay chỉ về phía hoàng thành, nhẹ nhàng nói ra một cái tên. Trương Ngự sử hít sâu một hơi, bàn tay vô thức vuốt râu.

Chuyện này nói lớn thì không lớn, mà nói nhỏ… thì cũng chẳng nhỏ, chỉ là vị

quý nhân mà thần y muốn gặp, đó là người còn khiến triều đình e dè hơn cả đương kim Thánh Thượng.

Nếu thành công, hắn ta chẳng khác nào lập công lớn, đợi nhận thưởng là vừa. Nhưng nếu thất bại, e là đến lúc phải tự mình xuống dưới tạ tội với tổ tiên.

Nguyễn nương thấy hắn ta chần chừ, thầm mắng một tiếng đồ nhát gan, nhưng ngoài miệng lại nhẹ giọng khuyên:

“Không cần ngươi tự ra tay, chỉ cần thuận nước đẩy thuyền là được.” Nói đoạn, nàng ấy kể vắn tắt lời dặn ta từng dạy.

Rượu vào gan to, Trương Ngự sử liếc nhìn cái bụng đã nhô lên của phu nhân, lại nhớ đến mấy ngày gần đây đồng liêu trong triều lời bóng tiếng gió, cơn giận dồn lên, vỗ mạnh xuống bàn: “Được! Việc này ta đồng ý!”

Xưa nay người ta vẫn hay nói: cầu vinh hoa phải mạo hiểm. Nếu thành, hắn ta, lão Trương, cũng coi như nở mày nở mặt một lần.

Vài ngày sau, một vị thần y tên “Minh” đột nhiên xuất hiện ở kinh thành, danh chấn bốn phương.

Thần y Minh tính tình cổ quái, y thuật siêu phàm, nhưng không chịu xem bệnh thông thường, càng kỳ quái càng thích.

Hơn nữa lại không ở cố định nơi nào, chỉ có thể liên hệ qua phu nhân Trương Ngự sử.

 

Ban đầu chỉ là vài kẻ tự cho rằng mình vô phương cứu chữa tìm tới, ai ngờ vừa trị bệnh liền thấy hiệu quả rõ rệt. Những căn bệnh được y sĩ bình thường chẩn là “hết thuốc cứu chữa”, thì trong mắt thần y Minh chỉ là “bệnh nhỏ”.

Lâu dần, cái tên thần y Minh này lan truyền khắp giới quyền quý kinh thành. Mồi đã thả, chỉ chờ cá cắn câu.

Không ngoài dự đoán, nửa tháng sau, ta nhận được một tấm thiệp mời từ phủ Nhiếp chính vương.

Nhiếp chính vương từ nhỏ mất mẹ, được một vú nuôi nuôi lớn.

Vú nuôi ấy họ Trịnh, cả đời không lấy chồng, không con cái, không người thân, được Vương gia đón ra khỏi cung, phụng dưỡng như mẫu thân.

Mọi người trong phủ tôn trọn gọi là Lão thái thái Trịnh thị. Thiệp mời lần này, chính là do bà gửi tới.

Trời vừa tối, một cỗ xe ngựa không mấy nổi bật lặng lẽ rời khỏi cổng sau Trương phủ, chạy thẳng về phía trung tâm hoàng thành.

Trong khoang xe chao đảo, ta siết chặt tay Nguyễn nương, lòng ngập tràn cảm kích:

“Yên tâm, nếu việc này không thành, ta tuyệt không để Trương gia liên lụy.” Nguyễn nương dịu dàng vén lọn tóc rủ bên má ta ra sau tai, nở nụ cười nhẹ:

“Không sao. Ta hiện đang mang thai. Dù vị kia có nổi giận giáng tội, ta cũng có thể dựa vào việc ‘duy trì hương hỏa’ mà hòa ly, thoát khỏi Trương gia.”

“Nói tới hắn…” Giọng nàng ấy lạnh hẳn đi. “Năm năm qua, ta cũng đã nhìn thấu rồi. Một kẻ nhát gan vô dụng như thế, dựa vào đâu bắt ta chôn theo?”

Trong bóng tối lờ mờ của khoang xe, gương mặt trắng trẻo của Nguyễn nương chẳng hề mang lấy một tia sợ hãi.

 

Lời nàng ấy khiến ta yên tâm phần nào.

Chưa đầy nửa nén nhang, xe đã dừng lại ổn định.

Ta khẽ vỗ đầu nàng ấy xem như trấn an, sau đó tung người bước xuống xe. Tấm mạng sa màu lam sẫm vẽ nên một đường cong lướt nhẹ giữa đêm đen.

Luật pháp triều đình quy định: dân cư không được phép xây nhà cao hơn cung thất của Thánh thượng.

Vậy mà trước mắt ta, là một tòa phủ đệ ngang ngược sánh vai cùng chính điện của hoàng cung. Cao lớn đến nỗi ta phải ngửa đầu mới thấy rõ bốn chữ rồng bay phượng múa treo trên cổng chính:

“Phủ Nhiếp chính vương.” 5

Ký ức về Nhiếp chính vương thoảng qua như vị ngọt dịu dàng của viên kẹo

mạch nha.

Khi ấy ta còn chưa mang họ Hạ Lan, mà chàng ấy cũng chưa phải là quyền khuynh thiên hạ Nhiếp chính vương.

Huynh trưởng ta y thuật cao minh, nhưng kẻ lui tới cửa nhà lại hiếm hoi đến đáng thương. Cả nhà họ Tống rộng lớn, chỉ còn hai huynh muội chúng ta nương tựa lẫn nhau.

Tiên đế trọng đãi huynh trưởng ta, mỗi dịp lễ Tết lại đặc cách cho phép huynh mang theo muội muội vào cung, xem như mở mang tầm mắt.

Tết Trung thu năm ta chín tuổi là lần đầu tiên ta gặp Lý Khiêm.

Cũng là lần đầu tiên ta vào cung. Huynh ta bị Chiêu nghi Thẩm Huệ gọi đi chẩn bệnh gấp, ta được cung nhân dẫn đi dạo hoa viên giải sầu. Nào ngờ lại đắc tội với Lục công chúa, chỉ vì ta mặc y phục màu xanh, màu nàng ta thích nhất.

 

Ta bị cung nữ khỏe mạnh ấn xuống đất, giãy giụa không để chúng lột xiêm y. Ta là người theo huynh vào cung, sao có thể để mình bị sỉ nhục, để huynh trưởng bị bọn tiểu nhân trong triều lấy đó làm trò cười?

Nhưng ta sức yếu làm sao chống lại được kẻ mạnh. Đúng lúc ta tuyệt vọng nhất, Lý Khiêm xuất hiện.

Chàng ấy chỉ vài câu đã mắng lui Lục công chúa, rồi lệnh cho người lôi hết đám hùa theo ra ngoài phạt nặng.

Từng cử chỉ, từng lời nói đều không mang chút ngạo mạn giả dối thường thấy nơi hoàng tộc.

“Sao còn chưa đứng dậy? Nằm đó không đau à?”

Ta ngơ ngác nằm rạp trên nền đá cuội, đến cả lúc nào đã thoát khỏi khống chế cũng chẳng nhận ra.

Giọng chàng ấy… thật dễ nghe.

Lý Khiêm nhìn ta lấm lem chật vật, nhịn không được khẽ mỉm cười, tự tay bế ta lên giao cho cung nữ phía sau. Dặn nàng đưa ta về tìm Tống thần y.

Ta được ôm vào lòng, vỗ về dỗ dành bằng giọng nói dịu dàng. Nhân lúc cung nữ không để ý, ta khẽ mở tay ra.

Trong lòng bàn tay in hằn vết đỏ, lặng lẽ nắm trong đó một viên kẹo mạch nha. Là chàng ấy lén đưa cho ta.

Viên kẹo ấy ngọt lịm, trên giấy gói còn vẽ một hình thù xiêu vẹo, trông giống như con thỏ nhỏ.

Thì ra có những người, bề ngoài đường hoàng chững chạc, vậy mà trong tay áo lại giấu cả kẹo ngọt.

 

Mãi về sau ta mới biết, Lục công chúa nào có thích màu xanh. Nàng ta chỉ vì huynh ta không chịu giúp nàng ta giả bệnh để trốn học, nên mới giận cá chém thớt với ta.

Từ sau lần bị làm khó ấy, huynh không cho ta vào cung nữa. Ta cũng ít khi có cơ hội gặp lại vị “đại ca tốt bụng cho kẹo” kia.

Lý Khiêm là đệ đệ tiên đế tin cẩn nhất, dù có vô tình gặp mặt, thì lúc nào phía sau chàng ấy cũng là cả hàng dài người trái phải theo hầu.

Rồi sau đó, huynh ta bị hãm hại, triều cục thay đổi. Lý Khiêm một bước lên làm giám quốc Nhiếp chính vương, nổi danh khắp thiên hạ vì sự quyết đoán và lạnh lùng.

Nghe đồn ngày đầu chàng ấy tiếp nhận triều chính, có đại thần ngang ngược, nhưng chưa dứt lời can ngăn thì “bịch”, đầu lìa khỏi cổ.

Còn Lý Khiêm, tay cầm trường đao, vẫn điềm nhiên như không, chẳng vội lau máu trên mặt, trái lại chậm rãi đảo mắt nhìn quanh:

“Chư vị đại nhân, còn ai có ý kiến không?” Quần thần câm như hến.

Cuối cùng phải để tiểu hoàng đế đứng ra dàn xếp.

Thiên hạ ai ai cũng nói tiên đế đã giao nhầm người, rằng Lý Khiêm chẳng qua là con sói tham lam đầy dã tâm, sớm muộn gì cũng cướp ngôi.

Nhưng ta không cho rằng có dã tâm là điều xấu.

Không có dã tâm, ta đã chẳng thể sống sót qua ba năm bị Hạ Lan Thành hạ độc.

Nguyễn nương chỉ là bước đầu để danh y Tống Minh Ngọc được người đời biết tới. Còn Lý Khiêm… mới là mắt xích quan trọng trong kế hoạch của ta.

Hạ Lan Thành đã chết, ta chỉ còn hai tâm nguyện.

 

Một là kế thừa y thuật huynh để lại, truyền danh thiên hạ.

Hai là điều tra lại vụ án của Huệ phi năm xưa, rửa sạch oan khuất cho huynh ta.

Mà thiên hạ này, người có quyền lật lại án cũ của hoàng thất, chỉ đếm trên đầu ngón tay. Lý Khiêm chính là một trong số đó.

 

6

Bọn hạ nhân trong Vương phủ được huấn luyện nghiêm chỉnh. Sau khi đưa ta tới trà đình thì lặng lẽ đứng sang một bên, không nói một lời.

Lúc này đã gần đến giờ Tý, sương đêm nặng nề. Ta cố chịu cái lạnh thấu xương đến mức ngón tay tê cóng, vậy mà vẫn chưa thấy Lão thái thái ra tiếp khách.

Trong lòng không khỏi có chút bực dọc.

Ngay lúc ta định bày ra vẻ thần y kiêu ngạo, thì bên ngoài đột nhiên truyền tới tiếng cãi vã náo động.

Ta lắng nghe thật kỹ, hình như là tiếng của Chu Yến Thanh, giọng điệu đang mắng người.

Ta vốn đã đợi đến sốt ruột, nghĩ bụng ra ngoài đi dạo một chút có khi lại ấm người, liền nhấc chân bước ra ngoài.

Băng qua hành lang, vị thiếu khanh đại lý tự mà ta đã nhiều ngày không gặp bất ngờ lọt vào tầm mắt.

Hắn đang ấn một người xuống đất, thanh đao Chu Tước vốn an phận nằm trong vỏ, giờ đang kề ngay sau gáy kẻ kia.

Ta theo bản năng muốn cất tiếng trêu ghẹo, nhưng nghĩ đến chuyện mình còn đang mang khăn che mặt, chưa tiện lộ thân phận, đành lặng lẽ lui bước.

“Cô nương, xin dừng bước.”

 

Giọng nói lạnh nhạt vang lên giữa đêm đen, chẳng khác nào không phải mời ta đứng lại, mà là… bảo ta để mạng lại.

Chu Yến Thanh ngẩng mắt nhìn thẳng vào ta.

Trong khoảnh khắc đó, rõ ràng là có chút ngạc nhiên thoáng qua trong ánh mắt hắn.

Mà ta cũng ngạc nhiên không kém: Không thể nào, thế mà hắn cũng nhận ra à?

Sớm biết vậy ta đã không ham đẹp mà chọn khăn che mặt, đáng ra phải quấn cả cái đầu lại mới đúng!

Không cần đoán cũng biết, vị Chu đại nhân nổi tiếng nghiêm khắc này sắp sửa chất vấn mục đích của ta, rồi chỉ vào mũi ta mà mắng là “bụng dạ khó lường” đây.

“Tại hạ là Thiếu khanh Đại lý tự, Chu Yến Thanh.” Hả? Đây là màn gì vậy?

Biết nhau là mất mặt lắm sao? Sao còn làm bộ lạ lẫm?

“Tên này phạm tử tội. Hắn nói mình không sai, nhưng ta vẫn quyết định bắt về xét xử.”

Hắn nói xong câu đó thì lại rơi vào trạng thái “đánh ba gậy cũng không bật được một câu”, ánh mắt nhìn ta vừa như chờ đợi, vừa như thăm dò.

Chu Yến Thanh, hũ nút không mở miệng, đang im lặng chờ ta phản ứng. Không đoán nổi hắn định làm gì, ta đành đưa ngón cái ra khích lệ:

“Ừm, tiểu Chu đại nhân thật lợi hại?” Hắn trầm mặc.

 

Cả một hồi không ai lên tiếng.

Tên tội phạm bị đè dưới đất chịu không nổi bầu không khí gượng gạo, lập tức gào lên:

“Đại nhân! Tiểu nhân không nhận tội! Tên Lý Tứ ấy làm nhục con gái ta, hại nó thần trí bất ổn, còn bị dân làng chê cười sống không bằng chết! Thế mà hắn chỉ ngồi tù vài năm là được thả, ta không cam tâm! Ta giết hắn, có gì sai!”

Hắn ta vừa gào vừa khóc, lại thao thao kể về con gái mình ngoan ngoãn thế nào, hiểu chuyện ra sao.

Nghe đến ai oán đứt ruột đứt gan, khiến ngay cả ta, kẻ tự nhận mình máu lạnh vô tình, cũng phải mềm lòng, nói:

“Con người vốn không phải cây cỏ, ai mà vô cảm cho được. Ta thấy hắn cũng là kẻ đáng thương, dưới gối còn có con nhỏ cần chăm sóc. Hay là Đại nhân cứ tống giam vài năm, còn… đầu rơi máu chảy thì thôi miễn vậy?”

Không những không ngăn lại, Chu Yến Thanh còn nhướng mày, liếc ta một cái như cười như không:

“Ồ? Cô nương cũng thấy hắn không đáng chết? Nhưng quốc có quốc pháp, giết người thì phải đền mạng. Nếu cô nương không nỡ để con gái hắn không người chăm sóc… vậy chi bằng, cô thay hắn đền mạng?”

Trong chớp mắt, Chu Tước bị rút ra khỏi vỏ, ánh thép bổ thẳng vào ta.

Ta không kịp phản ứng, bị sát khí của hắn chấn nhiếp đứng tại chỗ, mắt mở trừng trừng nhìn lưỡi đao dừng lại ngay sát mặt ta.

Chỉ lệch một chút thôi… là đầu rơi rồi.

Lạy trời, lạy đất, lạy cả áo choàng và cữu cữu của ta… đây vẫn là cái tên Chu Yến Thanh mà ta quen biết sao?!

 

“Có… có thể nào…” Ta khó nhọc thở ra một hơi, rụt rè giơ hai ngón tay kẹp lấy lưỡi đao. “Ta thay hắn nuôi con gái được không?”

Không khí đông cứng trong một giây.

Tội phạm ngồi dưới đất không nỡ nhìn cảnh tượng này, vội quay mặt đi. “Thầy thuốc có lòng từ bi, dưới pháp luật vẫn còn nhân tình mà…”

Dù y thuật của Hạ Lan Thành chẳng ra gì, nhưng lừa tiền thì giỏi, nuôi thêm một đứa bé cũng không phải chuyện khó, huống hồ ta còn đang thiếu người nấu thuốc…

“Hay lắm, nói hay lắm!”

Một giọng già nua mà mạnh mẽ cắt ngang dòng suy nghĩ của ta.

“Trương Ngự sử quả nhiên không nói sai, thần y Minh đúng là khác người.” Truyền thuyết sống, Trịnh lão thái thái, rốt cuộc cũng chịu xuất hiện.

“Người mà lão nhân cần, không cầu y thuật cao siêu, chỉ cầu có lòng nhân không ngại sinh tử.”

Ta còn đang ngơ ngác nhìn thì bà đã chậm rãi bước tới.

“Những kẻ tự xưng là ‘thần y’ trước kia ấy, đừng nói bị chém mà không bỏ chạy, chỉ cần trò chuyện với ‘Diêm Vương sống’ này vài câu cũng đã sợ mất mật rồi.”

Cân nhắc đôi chút, ta quyết định… không nói thật rằng bản thân quá sợ nên chưa kịp bỏ chạy.

“Xem ra lão thân cuối cùng cũng tìm được người có thể tin tưởng. Mong thần y Minh ở lại nghỉ ngơi tạm một đêm, sáng mai chúng ta khởi hành đến Cảm Nghiệp Tự!”

Lời vừa dứt, kẻ “giết người” khi nãy lập tức bật dậy, thuần thục cúi người chỉ đường, động tác lưu loát vô cùng.

 

Ta ngẩn người quay sang nhìn Chu Yến Thanh.

Hắn đã sớm thu đao vào vỏ, khoanh tay đứng yên một bên, ngẩng đầu nhìn trời, trông chẳng khác gì một bức tượng đá.

“……”

Đến nước này mà ta còn không nhìn ra đây là một vở kịch… thì chi bằng tự chết cho rồi.

Cái đồ Chu Yến Thanh đáng chết này… ngươi dám hợp mưu với người ta… gạt ta?!

 

7

Trời vừa tờ mờ sáng, ta đã theo chân lão phu nhân họ Trịnh rời thành, lên đường đến Cảm Nghiệp Tự.

Tối qua ta từng vòng vo hỏi dò bọn hạ nhân vài câu, có lẽ đã được lệnh trước, bọn họ cũng không giấu giếm.

Thì ra mấy ngày nay đúng lúc trùng với giỗ Tiên đế, theo lệ thường, Nhiếp chính vương sẽ đến Cảm Nghiệp Tự ở lại nửa tháng, để tỏ lòng tưởng niệm.

Còn cuộc thử thăm dò đêm qua, cũng là bất đắc dĩ Trịnh lão phu nhân phải làm ra.

Bệnh của Nhiếp chính vương… rất kỳ quái.

Từ hai năm trước, chàng ấy bắt đầu ho ra máu, nhưng lại không thấy thân thể đau nhức gì, ngược lại còn cường tráng hơn xưa.

Cả ngự y trong cung lẫn đại phu trong phủ đều nói không tìm ra nguyên nhân. Nhưng máu trong người con người vốn có hạn, làm sao chịu được cảnh ngày ngày khạc ra từng ngụm?

 

Vậy mà sắc mặt của Nhiếp chính vương lại mỗi ngày một hồng nhuận, nhìn thế nào cũng giống như hồi quang phản chiếu trước khi lìa đời.

Lý Khiêm lại cố chấp cho rằng bản thân không bệnh hoạn gì. Chàng ấy mâu thuẫn gay gắt với tiểu Hoàng đế, không muốn để kẻ khác thấy mình yếu thế nên kiên quyết không chịu khám tiếp.

Trịnh lão phu nhân bất lực, đành phải âm thầm tìm danh y giang hồ. Chỉ vì thân phận đặc biệt của Lý Khiêm, bà sợ có kẻ mang dã tâm lợi dụng cớ ấy để vào phủ. Nên mới nhờ người bạn thân tín nhất của Lý Khiêm, Chu Yến Thanh, nghĩ ra kế sách hôm qua.

Kỳ thực chỉ cần tỉnh táo nghĩ kỹ, là có thể thấy kế ấy sơ hở chằng chịt.

Nhưng không chịu nổi chính là… Chu Yến Thanh quá dọa người. Một khi vung đao, bất kể là người hay quỷ, đều bị tiễn thẳng xuống điện Diêm Vương.

Thế là ta trở thành một trong hai người hiếm hoi vượt qua cuộc thử thách và được phép gặp Nhiếp chính vương.

Người trước đó đến từ Tây Bắc, sau khi bắt mạch xong chỉ nói cần về hỏi lại sư phụ. Không ngờ trời xui đất khiến, trên đường trở về xe ngựa lại lồng lên, cả người lẫn xe lăn xuống vực sâu.

Lý Khiêm nghe xong càng không chịu khám bệnh thêm.

Lúc Trịnh lão phu nhân vào trong khuyên nhủ, ta nhàn rỗi nhìn quanh tiểu viện. So với vương phủ nguy nga lộng lẫy, nơi này nhỏ nhưng lại tinh xảo vô cùng.

Một con đường lát đá uốn quanh sân, một đầu hướng ra Cảm Nghiệp Tự, đầu còn lại dẫn vào sâu trong núi.

Chùa tọa lạc lưng chừng núi, rừng cây rậm rạp che phủ hơn một nửa. Đặt mình giữa nơi này, không giống đang ở chốn thiền môn, mà như ẩn thân nơi sơn lâm u tịch.

 

Nếu bị thương tại đây, việc hái thảo dược cầm máu cũng dễ hơn nhiều.

Theo bản năng của một người hành y, ta bắt đầu tìm kiếm những loại cây thuốc quanh sân.

Ừm, bụi kia không tệ. Chà, chỗ này càng tốt.

Chưa kịp khen hết câu, bụi cỏ nhỏ đã bị một đôi giày dẫm nát. Ta: “……”

Ngẩng đầu nhìn lên, người xuất hiện lại là một kẻ quen mặt.

“Xem ra tiểu Chu đại nhân thật rảnh rỗi, không những có thời gian phụ Lão phu nhân dọa nạt thiếu nữ yếu đuối, mà còn thong dong đến đây cầu thần bái Phật?”

“Đại nhân chắc không lạc đường đấy chứ? Ngươi đến đây lễ Phật, chẳng lẽ không sợ sát nghiệp quá nặng, Phật Tổ nổi giận giáng sấm đánh chết à?”

Vừa dứt lời mỉa mai, ta đã hối hận.

Ta và hắn vốn chẳng thân thiết, hắn giúp người ngoài thử ta, ta giận hắn làm gì? Ta chỉ trách đêm qua không ngủ ngon, nên giờ miệng nhanh hơn não.

Chu Yến Thanh lại chẳng giận, trái lại còn hơi ngẩn ra:

“Ta giết đều là kẻ đáng giết, cớ gì phải sợ? Ta không tin thần Phật, ta chỉ tin chính mình.”

“Ta đến đây, một là vì điều tra vụ tham ô. Hai là… đặc biệt tìm Phu nhân.”

Vụ đại án tham nhũng thời gian gần đây gây xôn xao khắp kinh thành, nhiều quan lớn đã bị truy tố. Chuyện này thiên hạ đều biết, không đến mức hắn phải bịa ra.

Lạ ở chỗ, kẻ cả ngày chỉ nghĩ đến phá án như hắn, sao lại có thời gian đến tìm ta?

 

Chẳng lẽ, cái chết của Hạ Lan Thành thật sự bị hắn phát hiện điều gì rồi?

Hắn bước gần lại một bước, hơi cúi người, thấp giọng nói:

“Bất luận kết quả thế nào, mong Hạ Lan phu nhân nói thật với Vương gia. Tại hạ… nhất định sẽ bảo vệ Phu nhân chu toàn.”

Với động tác cúi người ấy, trong không khí liền phảng phất mùi máu nhàn nhạt. Hắn bị thương?

Lời hắn nói khiến lòng ta trào dâng nghi hoặc, cứ thấy có gì không ổn.

Đúng lúc này, nha hoàn tới gọi, ta đành ép mọi suy nghĩ xuống, giả vờ nhẹ nhàng nói:

“Coi như hôm qua đại nhân thức thời không vạch trần ta. Yên tâm, đã là người hành y, thì đối với bệnh nhân, ta luôn biết gì nói nấy.”

Chu Yến Thanh gật đầu, rồi bất ngờ nắm lấy tay ta, dùng lực kéo mạnh.

Ta bị lôi đến loạng choạng vài bước, chỉ cảm thấy trên đầu có thứ gì khẽ sượt qua.

Đợi khi kịp phản ứng lại, hắn đã buông tay, lui về khoảng cách đúng mực lễ nghi.

“Chỗ này dính lá rụng.”

Mọi ánh mắt đổ dồn về lòng bàn tay hắn, nơi đó đúng là có một chiếc lá nhỏ.

Trong ánh nhìn hoài nghi của đám nha hoàn, ta bình thản siết chặt thứ cứng cáp trong tay, gượng cười.

Có trời mới biết khi nãy ta suýt chút nữa đã nổi đóa tại chỗ. “Vương gia đã chuẩn bị xong, vậy phiền dẫn đường.”

 

Đợi đến khi nha hoàn quay người, ta cũng thuận thế buông tay ra sau lưng, giấu dưới tay áo rộng, lặng lẽ sờ thử vật trong tay.

Dựa vào xúc giác và chút hiểu biết nông cạn về binh khí, đây có vẻ là… một con dao găm nhỏ.

Chu Yến Thanh vừa mới đưa ta một con dao găm?!

Hắn định làm gì? Nếu khám không ra bệnh thì để ta tự cắt cổ à?

Trước khi lên núi, đã có người kiểm tra toàn thân ta, đến cả trâm trên tóc cũng bị tịch thu.

Điều đó cho thấy Nhiếp chính vương vô cùng cẩn trọng.

Chu Yến Thanh vốn nghi ta là hung thủ sát hại Hạ Lan Thành, vậy mà giờ lại âm thầm đưa cho ta một món vũ khí không được phép xuất hiện?

Chỉ có hai khả năng:

Hoặc hắn muốn gài bẫy ta mưu hại Nhiếp chính vương.

Hoặc, là con đường sắp tới nguy hiểm, hắn hy vọng ta có thể tự bảo vệ mình. Chu Yến Thanh, ngươi là vế sau sao?

Trong thời gian ngắn ngủi, ta đã đưa ra quyết định.

Trước khi bước vào tiểu viện, ta ngoái đầu nhìn bầu trời u ám, mỉm cười với Chu Yến Thanh vẫn đang đứng bên ngoài:

“Hình như trời sắp đổ mưa rồi. Phiền tiểu Chu đại nhân giúp ta nhắn với Trương phu nhân, làm ơn thu giúp ta mấy loại thảo dược trong sân viện.”

8

Những năm đầu sau khi huynh ta qua đời, hầu như đêm nào ta cũng mơ thấy huynh ấy.

 

Trong mộng, huynh đứng dưới tán liễu già nơi quê cũ. Trên người là bộ áo vải đã bạc màu, tay cẩn thận ôm lấy chiếc bánh rong biển mới ra lò còn đang bốc khói.

Đôi tay ấy, còn chưa đủ khéo để sử dụng nhuần nhuyễn ngân châm, xương ngón tay nổi rõ chai sạn chằng chịt, trông vừa vụng về vừa xót xa.

Để nuôi sống đứa muội muội còn nhỏ tuổi như ta, huynh ta đành ban ngày ra đồng cày cấy, đêm đến mới có thể lật giở y thư mà phụ thân để lại.

Người ta nói con nhà nghèo sớm biết tự lập, vậy mà ta lại được huynh nuôi dưỡng đến mức ngây thơ chẳng biết gì, gom đủ mọi tật xấu trẻ con thường có: Ham ngủ, ham chơi, không hiểu chuyện, cứ mở sách là kêu nhức đầu.

Huynh hết cách, đành hứa với ta: mỗi lần học xong một quyển sách, sẽ mua cho ta món bánh rong biển mà ta thích nhất.

Ở phía Tây thành có một tiệm bánh nhân của hai vợ chồng. Bánh rong biển họ làm vỏ mỏng nhân đầy, trẻ con trong thành ai cũng mê, ta cũng không ngoại lệ. Vậy nên ta ngoan ngoãn học bài, mong sớm được cùng huynh ngồi dưới tán liễu, ăn từng miếng bánh nóng hổi trong ánh mắt hâm mộ của lũ trẻ khác.

Hôm đó cũng như thường lệ, ta vừa học xong một quyển sách, thế nhưng chẳng thấy bánh đâu, khóc lóc ăn vạ bắt huynh phải đi mua bằng được.

Lần ấy, có vẻ như bánh làm rất lâu, bởi huynh ta đến tận lúc mặt trời lặn sau núi mới về tới, chân phải còn đi khập khiễng.

Huynh bảo là trượt chân ngã nên về muộn, ta giận dỗi trách huynh suốt cả buổi.

Mãi đến nhiều năm sau ta mới biết, hôm đó huynh bị thương lúc đi cày. Huynh vốn định dùng tiền mua thuốc, nhưng thấy ta khóc đến mức không dỗ được, đành cắn răng lê chân bị thương đi về phía Tây thành.

May mà cuối cùng chân huynh vẫn hồi phục, bởi vì huynh đã gặp được quý nhân trong đời, thuận lợi tiến vào Thái y viện, trở thành Tống thần y danh chấn thiên hạ.

 

Còn chuyện nhặt được Hạ Lan Thành là chuyện xảy ra trên đường huynh muội bọn ta chuyển nhà vào nội thành.

Thời điểm câu chuyện bắt đầu, người được nhắc đến ngang tầm y thuật với huynh ta, vốn chẳng phải là Hạ Lan Thành.

Cải tử hoàn sinh Tống Ứng Từ, diệu thủ hồi xuân Tống Minh Ngọc.

Huynh muội nhà họ Tống một người cứu người từ cõi chết trở về, một người chẩn bệnh chỉ qua sợi chỉ buộc tay.

Người người đều nói ông trời có mắt, ban cho nhà họ Tống hai vị thần y. Nhưng ta và huynh, cuối cùng vẫn là hai người khác biệt.

Huynh ta là kiểu người, trên có thể can gián quân vương, dưới sẵn lòng cứu dân đen, một người tốt thật sự.

Còn ta thì không. Ta cứu người hoàn toàn tùy theo tâm tình.

Tâm tình tốt, ta có thể khám miễn phí cho cả một hàng dài những người ăn xin nhỏ bé ngoài đường.

Tâm tình kém, thì có là lão thiên gia đến trước mặt ta cầu xin, cũng đừng mong ta cứu chữa.

Chính vì cái tính kiêu căng ấy, huynh luôn lo lắng cho ta.

Nên ngay từ sớm đã chọn được Hạ Lan Thành, người vừa chững chạc, vừa vững vàng để định hôn cho ta. Chỉ chờ ta đủ tuổi cập kê là sẽ thành thân.

Ta không có người mình thích.

Nếu cưới Hạ Lan Thành có thể khiến huynh ấy yên lòng, vậy thì… ta đồng ý thành thân với y.

Ngày huynh cõng ta lên kiệu hoa, ta đội khăn trùm đầu, tầm mắt bị che khuất, nên thính giác lại trở nên nhạy bén hơn.

Chính lúc đó, ta lần đầu tiên nghe thấy tiếng huynh nghẹn ngào. Huynh nói:

 

“Minh Ngọc nay đã là cô nương lớn, sau này phải biết tự chăm sóc bản thân.”

Chiếc khăn trùm đầu mỏng manh phất qua chóp mũi, khiến ta ngứa ngáy, bật cười khúc khích:

“Muội không đâu. Có ca ca bên cạnh, muội sẽ mãi là tiểu cô nương của ca.” Tiếng pháo nổ lách tách, ta không nghe huynh đáp lại.

Chỉ cảm thấy mu bàn tay đang ôm lấy cổ huynh đột nhiên ươn ướt, có giọt nước

nhỏ xuống.

Hử? Mưa rồi sao?

Qua lớp khăn trùm mỏng manh, ta ngước nhìn bầu trời, lòng đầy nghi hoặc. Lạ thật. Rõ ràng hôm nay là một ngày nắng đẹp mà…

9

Hôm ta hồi môn, huynh trưởng bị chỉ mặt là thông đồng với Chiêu nghi Thẩm Huệ, mưu hại Thái tử, bị ban rượu độc. Chết ngay tại chỗ.

Ta nghĩ, những năm qua sống trong chốn cung đình đầy hiểm họa, có lẽ huynh đã sớm linh cảm điều chẳng lành, nên mới vội vã gả ta đi. Mong giữ lại một phần huyết mạch cho Tống gia.

Tiếc rằng Hạ Lan Thành… lại chẳng phải người tốt.

Chàng và Phù Liễu vốn không phải tình cờ gặp gỡ, mà đã sớm cùng nhau nương tựa lúc còn lưu lạc đầu đường xó chợ. Hai người sớm đã thâm tình ý hợp.

Nhưng tình cảm tuổi trẻ làm sao sánh được với cơ hội trở thành phò mã của người đứng đầu Thái y viện?

Huynh ta nhìn trúng y. Nhưng số Phù Liễu lại không may mắn đến vậy, rơi vào chốn lầu xanh, đành trông cậy vào Hạ Lan Thành một ngày nào đó sẽ chuộc nàng ta ra.

Thế nhưng Hạ Lan Thành lại chọn con đường khác: làm rể nhà họ Tống.

 

Sau khi huynh trưởng qua đời, Hạ Lan Thành mới lộ rõ bộ mặt thật. Lợi dụng việc ta không nơi nương tựa, bên ngoài lấy cớ phu nhân thương tâm quá độ, bên trong thì đem ta nhốt trong phủ, giam cầm suốt ba năm.

Hạ Lan Thành là tham công cầu tiến, nhưng lại nóng vội. Tuy có thiên phú, nhưng lại không chịu khổ tâm nghiên cứu. Y thuật của huynh ta, y chỉ học được một chút vỏ ngoài.

Y có dã tâm lớn nhưng bản lĩnh không đủ, đành phải tìm đường vòng. Mà ở trong nhà, lại chẳng phải có một người hiểu y thuật giỏi hơn y sao?

Khi ấy ta đã tuyệt vọng, một lòng muốn tra ra sự thật đằng sau vụ án của Huệ phi nên danh tiếng, vinh quang… ta đều có thể từ bỏ.

Vậy nên mỗi lần gặp ca bệnh khó, y lại viện cớ “phu nhân tò mò chứng bệnh lạ”, mời người vào phủ, đặt bệnh nhân sau một bức màn dày để bắt mạch.

Sau tấm màn ấy, lại là ta, người bị y khống chế.

Ngày qua ngày, người ta dần quên mất tên Tống Minh Ngọc, chỉ còn nhớ Thái y Hạ Lan là người y thuật cao minh, lại si tình với vợ.

Thời gian cứ thế trôi qua. Ngoại trừ ba năm đưa thuốc tránh thai đều đặn, ta và y, hai kẻ vợ chồng trên danh nghĩa, cũng coi như nước sông không phạm nước giếng.

Cho đến một ngày, y uống rượu say về, miệng buột nói hớ.

Thì ra năm đó quả thực có kẻ khác hại Thái tử. Thứ “chứng cứ” đột nhiên xuất hiện trong hòm thuốc của huynh ta, chính là do người ấy ra lệnh cho Hạ Lan Thành bỏ vào.

Sau khi biết được sự thật, ta chỉ hận không thể bóp chết y tại chỗ, để báo thù cho huynh.

 

Nhưng để lấy được tên kẻ chủ mưu, ta chỉ đành tạm thời nhẫn nhịn.

Hạ Lan Thành tỉnh lại, trong lòng vẫn sợ, dù ta giả vờ như chưa nghe thấy gì, y vẫn bắt đầu sinh nghi. Thậm chí nảy ra ý định giết ta diệt khẩu.

Hôm thành thân, y từng tuyên thệ trước trời rằng cả đời chỉ cưới một người vợ, người ấy là Phù Liễu.

Tuy những năm qua nàng ta chẳng khác gì tiểu thiếp ngoài mặt, nhưng điều nàng ta khao khát nhất vẫn là có thể đường đường chính chính đứng bên người mình yêu.

Trong nỗi ngờ vực ngày một lớn và những lời gió thổi bên gối của Phù Liễu, Hạ Lan Thành cuối cùng chọn ra tay độc ác.

Mà cũng phải nói y ngu xuẩn, biết ta tinh thông y lý, vậy mà còn dám ngu ngốc hạ độc bằng phương pháp như thuốc độc ngấm dần?

Ta sao có thể ngồi yên chờ chết? Chỉ đành dùng chính cách của chính y… để trả lại.

Chàng không dễ dàng cho ta chạm vào thuốc, ta liền mỗi ngày giấu một lượng cực nhỏ, mắt thường khó phân biệt, ngày qua ngày, năm qua năm, độc tố tích tụ khiến y thân thể dần suy kiệt, chết trong ô nhục.

Tuy không moi được tên người kia từ miệng y, nhưng ta chắc chắn một điều, kẻ đó vẫn còn trong cung đình, và nhất định có quyền thế rất lớn. Bằng không, Hạ Lan Thành đã chẳng giữ kín đến chết.

Thái tử đã chết. Những hoàng tử còn lại và thế lực sau lưng bọn họ… ai cũng có hiềm nghi.

Thái hậu, hoàng đế, các vương gia…

Về tình cảm, viên kẹo mạch nha năm sáu tuổi ấy khiến ta tin Lý Khiêm.

 

Nhưng về lý trí, người dám ngay giữa đại điện giết người trước mặt hoàng đế như chàng ấy thì dù hoàng đế là ai, hình như với chàng ấy cũng chẳng quan trọng là bao.

10

Ta nhắm mắt, tập trung cảm nhận mạch đập nơi đầu ngón tay, đôi môi dưới lớp mạng che mặt mím chặt.

Lão thái thái Trịnh khuyên đủ điều, rốt cuộc cũng chỉ khiến Nhiếp chính vương chịu chẩn mạch từ sau tấm rèm.

Lúc này trong phòng, cảnh ta nhìn thấy chỉ có hai thị vệ đứng nghiêm và bóng dáng mơ hồ sau màn trướng của vương gia.

Tấm màn thêu hình giao long ẩn hiện trong ánh đèn. Cánh tay vươn ra ngoài có cơ bắp rắn chắc, chỉ là sắc da hơi tái nhợt, còn lại chẳng khác gì nam tử trưởng thành bình thường.

Ta thu tay về, bắt đầu đặt hàng loạt câu hỏi, đều do cung nữ bên cạnh Nhiếp chính vương trả lời thay.

Giữa mỗi câu hỏi và hồi đáp, nhịp tim ta đập càng lúc càng gấp. Đây là… triệu chứng trúng độc Tam Niên Nguyệt.

Tam Niên Nguyệt, như tên gọi, người trúng độc sẽ chỉ còn có thể ngắm được thêm ba lần trăng tròn.

Ngoài việc mỗi đêm vào giờ Tý ho ra máu không dứt, người trúng độc còn có biểu hiện “cải lão hoàn đồng”, đến khi chết sắc mặt vẫn hồng hào, trông hệt như đang ngủ say.

Loại độc này, người biết ít đến đáng thương, ta chỉ tình cờ thấy ghi chép trong y thư của phụ thân, bằng cổ ngữ Nam Độc của nước láng giềng.

Bởi vì cái tên vừa thô vừa rõ ràng, nên ta vẫn còn nhớ mãi đến giờ.

 

Từ khi sinh ra đến nay, ta chưa từng gặp ca bệnh nào như vậy, còn tưởng thứ độc này đã mất tích từ lâu.

Không ngờ lại bắt mạch trúng… người mà ta không ngờ nhất sẽ bị trúng độc.

Điều kiện để trúng Tam Niên Nguyệt gần như là nghịch lý: chỉ khi tự nguyện uống thuốc độc, độc tính mới phát tác.

Với điều kiện ngặt nghèo như vậy, Tam Niên Nguyệt thực sự trở thành vô phương cứu chữa.

Không ai tự tìm cái chết cả, huống chi là một người đứng trên vạn người như Lý Khiêm.

Tam Niên Nguyệt của Nam Độc… Nhiếp chính vương không chịu để y quan xem bệnh… du y Tây Bắc rơi xuống vực mất tích…

Trong mơ hồ, dường như ta sắp nắm được điều gì đó, lại chẳng thể nhìn rõ sự thật.

Lòng bỗng dâng lên một nỗi bất an khó tả. “Thần y Minh đã có manh mối gì chưa?”

Đó là câu đầu tiên chàng ấy nói từ khi ta vào phòng.

Giọng điệu không khác mấy so với trong ký ức, chỉ là trầm ổn hơn vài phần. Không hiểu sao, giọng của Chu Yến Thanh bất chợt vang lên trong đầu ta:

“Hi vọng bất kể kết quả ra sao, phu nhân cũng sẽ thành thật nói với Vương gia.” Tâm trí đang chao đảo bỗng bình tĩnh trở lại.

Ta hít sâu một hơi, đem hết những điều mình biết về Tam Niên Nguyệt, nói ra không sót một lời.

Ước chừng mất khoảng một nén nhang.

 

Sau khi nghe xong, Lý Khiêm im lặng rất lâu.

Ta lặng lẽ quỳ dưới bậc, lưng áo đã thấm ướt mồ hôi, dính bết vào da thịt. Không hiểu vì sao, tim trong lồng ngực đập thình thịch không ngừng.

“Không hổ là thần y.” Sau rèm vang lên một tiếng cảm thán nhàn nhạt, “Ngươi muốn ban thưởng gì?”

Một cảm giác kỳ quái dâng lên trong lòng, quá đỗi bất thường.

Chủ đề đổi quá nhanh, đầu óc ta chưa kịp phản ứng thì thân thể đã quỳ rạp xuống đất:

“Thảo dân từng được đại phu Tống Ứng Từ cứu giúp, tin rằng người như Tống đại phu tuyệt đối không phải kẻ tâm địa hiểm độc.

Cầu xin vương gia khai ân, tra lại vụ án của Huệ phi năm xưa!”

Ta cúi thấp đầu, nghe thấy tiếng rèm bị vén lên, rồi là tiếng giày đạp lên thảm, nặng nề từng bước.

Một ngón tay trắng đến bất thường nâng cằm ta lên, buộc ta phải ngẩng đầu nhìn thẳng vào mắt chàng ấy.

Có lẽ là do tác dụng của Tam Niên Nguyệt, Lý Khiêm vẫn giữ được dáng dấp thiếu niên mười mấy năm về trước, nhưng khí chất không còn dịu dàng như xưa.

Chàng ấy nhìn ta hồi lâu, rồi bật cười khe khẽ, nói như khẳng định: “Ngươi là muội muội của Tống Ứng Từ.”

Ta: “…”

Làm vậy chẳng phải khiến người che mạng như ta trông thật ngốc nghếch sao? Một người, rồi lại một người, trí nhớ ai nấy đều siêu phàm như thế. Không học y thì uổng thật đấy.

 

Chàng ấy thu tay về, thản nhiên nói tiếp:

“Không ai nói với ngươi à? Hai huynh muội các ngươi, đôi mắt giống nhau lắm.”

“Cái chết của huynh ngươi, ngươi biết được bao nhiêu?” Theo bản năng, ta lắc đầu.

“Chẳng biết gì mà dám đến kêu oan, gan cũng lớn đấy.”

Nam nhân chậm rãi quay lại ngồi vào chỗ cao, một tay chống đầu, giọng lười nhác nhưng mang theo chút nhăc nhở ta:

“Huệ phi và Thái tử chết rồi, người hưởng lợi nhiều nhất là ai, thì kẻ đó chính là kẻ đứng sau bức màn thôi.”

Trong đầu ta lập tức xoay chuyển suy nghĩ.

Sau cái chết của Huệ phi, hai vị hoàng tử dưới gối nàng bị Tiên hoàng chán ghét, mất đi cơ hội kế vị.

Thái tử chết, Hoàng hậu đau buồn quá độ, chẳng bao lâu cũng theo nhi tử mà mất.

Đại quyền trong cung rơi vào tay Thục phi, cũng chính là Đương kim Thái hậu.

Sau khi tiên Hoàng băng hà, các hoàng tử tranh đoạt quyền lực kịch liệt. Cuối cùng, Nhiếp chính vương cầm thánh chỉ xuất hiện, tuyên bố Ngũ hoàng tử do Thục phi sinh đăng cơ xưng đế.

“Là… Thục phi?”

Khi chàng ấy gật đầu xác nhận, ta bỗng như vỡ lẽ.

Chẳng trách Hạ Lan Thành đến chết cũng không chịu nói ra “người đó” là ai, vì là Đương kim Thái hậu cơ mà!

 

Thắng làm vua, thua làm giặc. Lịch sử xưa nay vốn là do kẻ chiến thắng chấp bút.

Cho dù Huệ phi có sống lại, mọc ra mười tám cái miệng cũng không dám nói linh tinh.

Vậy còn Lý Khiêm… Chàng ấy đóng vai gì trong ván cờ này?

Chàng ấy cảm nhận được ánh nhìn trần trụi không hề che giấu của ta, không giận mà còn nở nụ cười tán thưởng:

“Không quá ngu ngốc.”

“Xét theo tình huống huynh ngươi ngoan ngoãn chịu tội năm xưa, Bản vương sẽ ban ơn một lần, cho ngươi biết được rõ ràng.”

“Năm đó… quả thật là Bản vương và Thục phi cùng nhau sắp đặt.” Câu nói ấy, đối với ta, chẳng khác nào sét đánh giữa trời quang.

Ta còn muốn gặng hỏi thêm, thì bị một nhát chặt tay vào gáy. Ý thức dần chìm vào bóng tối.

Trước khi mất đi tri giác, ta mơ hồ nghe thấy giọng Lý Khiêm lẩm bẩm: “Đã bảo đừng chữa rồi, vậy mà bà ấy cứ không nghe.”

 

11

Khoảnh khắc được huynh trưởng ôm vào lòng, tiểu cô nương nhịn cả đêm cuối cùng cũng òa khóc nức nở, ấm ức kể lể với huynh về sự ngang ngược của Lục công chúa.

 

“Được rồi, Lục công chúa thật xấu, sau này ca ca không khám bệnh cho nàng ta nữa, có được không?”

Tiểu cô nương ra sức gật đầu đồng ý.

Ta đứng trong hành lang sâu hun hút của hoàng cung, chẳng hiểu vì sao mình lại mơ thấy cảnh tượng ấy.

Triều phục đỏ sẫm, đai ngọc trắng ngà, tôn lên vóc dáng huynh trưởng vai rộng eo thon, chỉ là chiếc mũ quan hơi lệch trên đầu khiến người ta cảm thấy buồn cười mà thương xót.

Huynh vừa hay tin muội muội mình bị bắt nạt, liền chạy vội một mạch đến nơi.

Ta chỉ đứng cách họ một đoạn, lặng lẽ nhìn huynh cúi đầu dỗ dành cô bé, vành mắt bất giác ửng đỏ.

Tiểu Tống Minh Ngọc khi còn nhỏ, cảm xúc dễ đến nhanh mà đi cũng nhanh, quay đầu liền ríu rít kể với huynh về Lý Khiêm:

“…Ca ca lớn kia tốt lắm, còn cho muội kẹo nữa!”

Nàng giơ bàn tay bé xíu lên, viên kẹo đã ăn hết từ lâu, chỉ còn lại mỗi tờ giấy gói.

Trên đường xuất cung, Tống Ứng Từ nghe nàng nói vậy liền cúi đầu liếc mắt nhìn một cái, sắc mặt lập tức thay đổi, lẩm bẩm một câu.

“Hử? Gì cơ?” Tiểu Minh Ngọc không nghe rõ, ngẩng đầu hỏi lại. “Không có gì. Sau này đừng đến gần vị ca ca đó nữa.”

“Sao lại vậy! Ca ca ấy cho muội kẹo mà…”

“Tống Minh Ngọc, thường ngày ca ca có thiếu kẹo cho muội đâu, sao chỉ vì một viên kẹo của người khác mà đã thiên vị thế hả?”

 

“Muội không có!” “Muội có!” “…Không có…”

Tiếng tranh cãi non nớt dần dần tan vào khoảng không tĩnh lặng.

Lúc ấy, ta chợt hiểu vì sao trong lòng luôn thấy điều gì đó bất thường.

Tiểu Tống Minh Ngọc khi ấy còn chưa đọc hết y thư, cả đời cũng sẽ không hiểu được huynh trưởng đã thì thầm câu gì.

Chỉ có ta, nhìn thấy rất rõ ràng.

Trên tờ giấy gói viên kẹo kia, hoa văn chẳng phải con thỏ hình thù kỳ quái, mà là ba chữ viết bằng chữ Nam Độc: “Mạch Nha Đường”.

12

Khi tân Hoàng đăng cơ, từng có không ít đại thần tỏ ý bất phục.

“Thục phi xuất thân từ Nam Độc, chẳng cùng huyết mạch với Đại Tề chúng ta, tất lòng dạ khó lường.”

Họ không tài nào hiểu nổi vì sao Tiên hoàng lại để đứa con do nàng ta sinh ra kế vị.

Trừ phi có kẻ giả truyền thánh chỉ, nhưng người cầm thánh chỉ khi ấy lại chính là Hoàng đệ được tiên Hoàng tin tưởng nhất, trong tay lại còn nắm binh quyền, lâu dần… chẳng ai dám hoài nghi nữa.

Trong dân gian từng có lời đồn: Nhiếp chính vương si tình với Thục phi, vì thế mới bất chấp tất cả mà đưa con nàng lên ngôi.

Trước đây, ta nghe mà cười khinh bỉ, cho rằng đó chỉ là trò của đám người viết chuyện dệt vải tưởng tượng ra.

Còn bây giờ… ta chỉ muốn thở dài mà nói: chuyện trong thoại bản quả nhiên bắt nguồn từ hiện thực.

 

Nếu lời đồn là thật, thì mọi điều kỳ lạ đều có lời giải.

Nam Độc cách nước ta núi cao vạn trượng, hàng hóa khan hiếm vô cùng. Lý Khiêm lấy đâu ra đường Nam Độc? – Từ Thục phi mà ra.

Chàng ấy toàn tâm toàn ý mưu tính cho nàng ta, nhưng mỹ nhân lại đa nghi, chàng ta đành cam tâm tình nguyện uống độc dược bí truyền Tam Niên Nguyệt của Nam Độc để thể hiện lòng trung thành.

Trịnh lão thái thái thương con như mạng, một lòng tìm danh y cứu chữa, nào hay chính đứa con mình lại tự nguyện lao vào chỗ chết.

Thậm chí để giữ kín bí mật, còn dàn dựng một màn kịch, đổ oan cho một du y tội nghiệp ở Tây Bắc.

Người người đều nói Nhiếp chính vương tàn bạo, nhưng không ai phát hiện, mọi việc chàng ấy làm đều là để giữ vững xã tắc.

Án tham nhũng của thế gia, án mua chuộc trong khoa cử… những việc tổn dân hại nước đều do chàng ấy ra tay chỉnh đốn, quá trình tuy có thương tổn đến kẻ vô tội, nhưng kết quả lại thật sự có ích cho muôn dân về sau.

Đến cả mạng mình chàng ấy cũng dám tính toán, thì mấy cái mạng chết oan trong mắt chàng ấy có đáng là gì?

Chỉ chờ đến ba năm hết hạn, chàng ấy vung tay một cái, rời khỏi thế gian, để lại một thiên hạ yên ổn cho Tiểu hoàng đế và tình nhân.

Một Nhiếp chính vương “vì quốc vong thân” tốt đẹp đến vậy. Một Lý Khiêm “tình sâu như biển” đến vậy.

Ta tính tới tính lui lại không tính nổi:

Hóa ra Nhiếp chính vương… lại là kẻ si tình coi ái tình là cơm ăn nước uống.

Trời ơi đất hỡi, ông trời ngươi đúng là bất công đến lố bịch!

Ngươi yêu cho đến chết thì hay rồi đấy, còn huynh muội bọn ta thì sao? Bị đẩy xuống thành oan hồn chết tức tưởi!

 

Khi tỉnh lại trong cơn mê mờ hỗn loạn, ta mất một lúc mới gom được tầm nhìn.

Hai bên là cây cối đang chạy ngược về sau, ta liền đoán mình đang bị người ta vác chạy trên vai.

Dạ dày quặn lên như sóng cồn, ta cố nuốt cơn buồn nôn xuống.

Người dưới thân khí tức vững vàng, khinh công không tầm thường, là cao thủ đấy.

Ta nhắm mắt, giả vờ vẫn còn hôn mê, âm thầm lắng nghe động tĩnh quanh mình.

Trong không khí đầy ắp hơi nước, mùi lá thông và trúc non tranh nhau xộc vào mũi.

Chắc chắn là sau núi rồi.

Chẳng bao lâu sau, hắn ta dừng chân trên một mỏm đá nhỏ, dưới đó sáu mét là khe suối hẹp.

Ta bị hắn ta tiện tay quẳng xuống đất, vai đập mạnh vào đá cuội, suýt chút nữa thì rên lên thành tiếng.

Ta khẽ mở hé mắt, ta nhận ra kẻ này chính là một trong hai thị vệ từng đứng trong phòng kia.

Hắn ta đang quan sát bốn phía, chắc là để xác nhận không có ai. Rồi dứt khoát rút đao, đâm thẳng về phía ta.

Nhanh đến mức ta còn chưa kịp rút dao găm Chu Yến Thanh cho mượn, đành lăn lộn né tránh trong chật vật.

Tên thị vệ này quả là loại người ra tay không nói nhiều, vừa vung chiêu vừa dồn ta tới gần mép vực.

Nếu hắn ta không quay lại báo cáo, kiểu gì Lý Khiêm cũng sẽ phái người khác đến xác nhận, chi bằng… để hắn ta tưởng ta đã chết thật.

Nghĩ vậy, ta liền thu tay lại, giả vờ lộ sơ hở.

 

Quả nhiên hắn ta mắc câu, một kiếm đâm xuyên ngực trái ta, còn sợ chưa đủ, đá ta một cú thẳng xuống vực.

Cú đá ấy suýt thì thật sự tiễn ta về trời.

Dưới suối toàn là đá lởm chởm, may mà ta rơi trúng bụi cỏ dại, giảm được lực va đập, bằng không thì xương cốt chắc chắn chẳng còn cái nào lành lặn.

Rơi từ độ cao sáu mét, ta không phát ra một tiếng, tập trung giả chết cho tròn vai.

Trong tầm mắt ta còn sót lại, cảnh tượng kẻ kia thò đầu xuống nhìn, thấy không có gì bất thường liền quay người rời đi.

Nhưng ta vẫn nằm yên bất động.

Nước suối lạnh buốt len vào vết thương, khiến phần ngực tê rần, ngược lại giúp ta cảm thấy dễ chịu hơn.

Nửa nén nhang sau, mép đá lại ló ra một cái đầu, vẫn là tên thị vệ ấy.

Hắn ta nhíu mày nhìn ta một lúc lâu, chắc chắn ta không còn hơi thở nữa, mới yên tâm rút lui.

Dù là thần tiên giáng thế, trúng một kiếm ngay tim như vậy cũng vô phương cứu chữa.

Chỉ là… đáng tiếc cho hắn ta, tim ta bẩm sinh nằm bên phải. 13

Xác nhận người đã rời đi, ta lập tức phun ra một ngụm máu tươi, nghiến răng bò

về phía một tảng đá lớn gần đó.

Ta kiểm tra sơ qua thân thể, đại khái thì cũng đã gãy hai, ba chỗ xương, nặng nhất là xương sườn bị đá một cú suýt gãy làm đôi.

 

Ta dùng con dao găm của Chu Yến Thanh chặt vài cành cây nhỏ, cố định lại những vị trí gãy xương, rồi tiện tay ngắt mấy bụi cỏ thuốc cầm máu, nhai sơ qua rồi đắp lên vết thương lớn trước ngực.

Mỗi lần cử động, toàn thân liền vang lên những âm thanh đau đớn từ trong xương cốt.

Nhìn con dao găm trong tay, ta tức đến nghiến răng:

“Không phải nói sẽ bảo vệ ta chu toàn sao? Lão nương sắp chết đến nơi rồi, người đâu hả?!”

Lời còn chưa dứt, từ trên trời rơi xuống một bóng người bê bết máu.

Hắn thảm hơn ta một chút, trực tiếp đập lên tảng đá, lăn mấy vòng mới lăn tới bên cạnh ta.

Thấy rõ khuôn mặt ấy, ta lặng lẽ trầm mặc: “…”.

Được rồi được rồi, nói ai kia là ai kia liền đến, thật linh nghiệm. “Lão thiên gia, cho ta chút thuốc trị thương đi có được không!” Không ai hồi đáp.

Không còn cách nào khác, chẳng lẽ ta lại thật sự ngồi nhìn hắn chết?

“Ê, Chu đại nhân?” Ta dùng cành cây chọc chọc vào mặt hắn, nâng giọng gọi, “Chu Yến Thanh!”

Hắn không nhúc nhích.

Chỗ này là điểm chuyên dùng để phi tang xác người sao? Ai cũng thích ngã xuống đây?

Trời không nghe, đất không thấu, ta đành cắn răng chấp nhận xui xẻo, kéo hắn trở lại chỗ tảng đá.

 

Sơ cứu đại khái xong, ta gần như kiệt sức, sắc mặt trắng bệch, dựa vào tảng đá nhắm mắt nghỉ ngơi.

Trên người hắn có hàng chục vết thương do đao kiếm gây ra, may mắn là chưa có dấu hiệu trúng độc. Trong điều kiện khắc nghiệt thế này, ta chỉ có thể cầm máu tạm thời, còn sống chết thì phải xem số mệnh hắn.

Chẳng rõ nơi này cách Cảm Nghiệp Tự bao xa, sắc trời dần tối, ta đành chờ đến sáng mai rồi tính tiếp.

Vậy cũng chứng minh một điều: dưới âm phủ, không thể nào chứa nổi hai Diêm Vương. Nên vị “Diêm Vương sống” này bị đạp ngược về dương gian.

Lúc hắn tỉnh lại, ta đang cố dùng đôi tay lạnh cứng để nhóm lửa. “Để ta làm cho.”

Giọng hắn khàn đục, thấp đến mức như tiếng gọi hồn từ phía sau lưng, khiến ta

giật bắn người. Tay hắn run lên một cái “xì xì”, khúc gỗ im ắng hồi lâu vậy mà lại bốc lên một tia lửa nhỏ.

Qua ánh lửa lập lòe, hai bọn ta ngồi đối diện, không nói gì.

Trao đổi thông tin xong, ta mới biết hóa ra mình và Chu Yến Thanh đúng là “anh em hoạn nạn”.

Một người bị đâm một nhát rồi ném xuống vực vì chẩn mạch cho Nhiếp chính vương.

Một người bị đám sát thủ của thế gia truy đuổi vì điều tra vụ tham ô, thể lực cạn kiệt nên rơi xuống đây.

Xem ra, lúc trước ngửi được mùi máu trên người hắn, thì hắn đã bị thương rồi. “Không ngờ… Nhiếp chính vương lại là loại người như vậy.”

 

Nghe giọng hắn là lạ, ta ngẩng đầu lên nhìn, suýt nữa thì ta bật cười, hắn sắp khóc đến nơi rồi.

“Ta luôn coi hắn ta là tri kỷ, nghĩ rằng hắn chỉ quá cứng rắn nên bị hiểu lầm. Ai ngờ… hắn cũng là kẻ coi mạng người như cỏ rác.”

“Ta khắp nơi lo lắng chạy chữa chỉ mong cứu được một mạng người… Xin lỗi, đêm đó ta không nên ngăn nàng lại, hại nàng suýt chết.”

Hốc mắt hắn đỏ lên, nước mắt đã rưng rưng, nhưng vẫn cố không rơi.

Ha… trước mặt người ngoài thì sát phạt quyết đoán, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là một thiếu niên chưa đến hai mươi.

Ta do dự một lúc, rồi dịch lại gần hắn, vỗ nhẹ lên đầu xem như an ủi:

“Không sao. Ta vốn dĩ là nhắm vào Lý Khiêm, cho dù ngươi không giúp, ta cũng sẽ tự tìm cách.”

Ta không hiểu rõ tình tri kỷ giữa họ là thứ gì, nhưng ta cũng biết với Chu Yến Thanh, một người như Lý Khiêm dám vì dân mà chống lại thế gia là điều vô cùng quý giá.

Không ai sai, chỉ là… đứng ở lập trường khác nhau mà thôi.

Lý Khiêm, với ta, là kẻ máu lạnh vô tình giết người vô tội. Với bách tính thiên hạ, là vị Vương gia khó có được.

Còn với Thục phi, lại càng là tình lang không thể thay thế. Chu Yến Thanh lấy lại bình tĩnh, khẽ thở ra một hơi:

“Vậy… là vì Hạ Lan Thành phản bội Tống đại nhân nên nàng mới giết hắn sao?”

“Sao không gõ trống kêu oan? Đại Lý Tự đâu dễ dung túng án oan.”

 

Ta bị hắn chọc cười: “Chu đại nhân, đầu ngài có phải rơi xuống núi va trúng đá không? Gõ trống kêu oan? Ta nên tố cáo ai? Hạ Lan Thành? Hay chủ mưu đứng sau lưng hắn, Hoàng thái hậu đương triều?”

“Hơn nữa, có những chuyện, không phải chỉ cần đền mạng là xong. Không tự tay giết hắn, ta không thể hả giận.”

Chu Yến Thanh mím môi, dường như không thể hiểu.

Từ nhỏ hắn đã sống trong gia đình hạnh phúc, cha mẹ yêu thương, đường quan thuận lợi.

Trong mắt hắn, mọi tội ác đều có hình phạt tương ứng. Trộm cắp thì bồi thường, giết người thì đền mạng. Cán cân nhân quả luôn có thể cân bằng.

Hắn không hiểu được sự thăm dò của Trịnh lão phu nhân, nhưng vì vẫn tin Lý Khiêm mà phối hợp. Cũng như lúc này, hắn không hiểu được lời ta, nhưng vẫn nghiêm túc lắng nghe.

“Hạ Lan Thành… cho ta uống ba năm thuốc tránh thai.”

Ánh mắt ta rơi vào đống tro tàn nơi đống lửa, giọng mệt mỏi: “Khi ta uống bát đầu tiên, ta đã mang thai bảy tháng rồi.”

“Chu đại nhân, ngươi có từng cảm nhận… một sinh mệnh đang dần dần tắt thở trong cơ thể mình chưa? Đó là huyết nhục của ta.”

“Ngươi bảo ta tin vào Đại Lý Tự? Dù Hạ Lan Thành có bị kết tội, cùng lắm cũng chỉ là ngồi tù vài năm vì phá thai. Tội thì có thể chuộc, nhưng hận này… ta sao có thể xóa nổi?”

Đồng tử Chu Yến Thanh chợt co lại.

“Huống chi, tội hắn gây ra đâu chỉ có vậy. Phù Liễu nói họ xưng hô như phu thê, chẳng qua là để lừa gạt mụ tú bà. Không nói thế, nàng ta đã sớm bị ép tiếp khách rồi.”

 

“Thuốc độc ta dùng chỉ phát tác sau khi hoan ái. Nếu hắn thật sự tôn trọng nàng ta, đã không để nàng bị giam nơi thanh lâu suốt bao năm.”

“Hắn không yêu ai cả, hắn chỉ yêu chính mình.”

“Với loại người như hắn, cái chết dễ dàng chính là sự giải thoát lớn nhất.” 14

Ta phải đi suốt một ngày mới ra khỏi khu rừng ấy.

Ngay khoảnh khắc cuối cùng sắp không gắng gượng nổi nữa, ta rốt cuộc cũng tìm được Tiểu Đào trong một ngôi làng nhỏ dưới chân núi, cách Cảm Nghiệp Tự không xa.

Việc này cũng phải cảm ơn Chu Yến Thanh đã chuyển lời giúp ta đến tay Nguyễn nương.

Những năm tháng lăn lộn đã khiến ta hình thành thói quen luôn để lại đường lui. Cái cớ “ra ngoài hái thuốc” chính là ám hiệu mà ta và Nguyễn nương đã hẹn sẵn từ trước.

Nếu có gì bất trắc, ta sẽ nghĩ cách nhờ người chuyển lời, để Nguyễn nương chuẩn bị sẵn lương khô, xe ngựa, rồi cho Tiểu Đào đến gần Cảm Nghiệp Tự đợi ta.

Ngôi làng nhỏ ấy không tiện dưỡng thương, mà phủ Hạ Lan ta lại chẳng thể quay về. Đang lúc ta chưa biết đi đâu, thì Chu Yến Thanh mở miệng bảo: hắn có mua một căn nhà trong kinh, xưa nay không ai ở, rất thích hợp cho một kẻ “mất hộ tịch” như ta.

Ta nghĩ rồi thấy cũng đúng, dù gì cũng chẳng ai dám tọc mạch chuyện của Chu đại nhân.

Trong nửa tháng điều dưỡng, ta dĩ nhiên không thể ăn không ngồi rồi.

Cái người tên Chu Yến Thanh ấy, đầu óc toàn dùng để tra án, nên hàng xóm láng giềng gần như chẳng ai ưa nổi.

 

Người xưa nói, “bà con xa không bằng láng giềng gần”, thân thể ta vừa hồi phục chút ít, liền dựng quầy nhỏ xem bệnh miễn phí.

Ho, cảm, sốt, trầy xước, chảy máu, ai tới cũng chữa.

Có người hỏi thân phận, ta liền nói mình là “chị họ xa” của Chu Yến Thanh.

Vì một phen hoạt động ấy của ta, uy danh của Chu đại nhân trong khu phố lập tức tăng vọt.

Dạo này hắn vừa xuống ngựa trở về là đã có người can đảm tới bắt chuyện. “Chu ca ca, đây là thịt xông khói nương ta gởi cho huynh đó!”

Chu Yến Thanh đảo mắt nhìn quanh, không thấy ai. Hắn cúi xuống, mới phát hiện có một bé con chưa tới đầu gối đang cố hết sức giơ một tảng thịt lớn hơn cả người mình.

Hắn vội vàng đưa tay nhận lấy, khom người ngang tầm với đứa trẻ, giọng nói vì cố dịu đi mà nghe hơi kỳ quái:

“Nương đệ tặng ta thịt làm gì?”

“Nương nói là cảm ơn tỷ tỷ của huynh chữa bệnh cho đệ, giờ đệ hết ho rồi!”

Tỷ tỷ? À, đúng rồi, là cái kẻ không biết xấu hổ kia, gần đây suốt ngày nhận là tỷ tỷ của hắn.

Chẳng phải Tống Minh Ngọc từng nói chỉ khám bệnh khó trị thôi sao? Sao giờ đến bệnh vặt cũng chịu khám rồi?

Chu Yến Thanh đang chau mày suy nghĩ thì đột nhiên, một cái hôn “chụt” mềm mềm rơi lên mặt.

“!!!”

Bé con lấy hết can đảm hôn lên má “ca ca đẹp trai”, vừa ngẩng đầu liền thấy gương mặt “cười như không cười” của người ta.

 

“… Hu hu hu, nương ơi, đại ca ca muốn đánh người nè!”

Chu Yến Thanh: Ta không có, ta thật sự không có, đừng nói bừa. Ta chỉ… chỉ muốn cười hiền một chút thôi mà.

15

Cuối cùng thì trên người Chu Yến Thanh cũng mang thêm đôi chút hơi thở nhân gian.

Như vậy mới đúng chứ, một thiếu niên mới mười mấy tuổi, suốt ngày cau mày trầm mặc, thực chẳng giống ai.

Hôm ấy khi đang ăn cơm, ta chủ động nói lời từ biệt.

“Tỷ muốn đi?” Hắn hiếm khi để lộ vẻ mặt như một đứa trẻ, “Đi đâu?”

“Không biết nữa.” Ta thành thật lắc đầu, “Hạ Lan phu nhân và thần y họ Minh đều đã chết, người còn lại chỉ là Tống Minh Ngọc.”

“Tống Minh Ngọc muốn đi đâu, thì cứ đi thôi.”

Chu Yến Thanh siết chặt đũa, trong giọng nói lặng lẽ lộ ra một tia buồn khó nhận ra:

“Tỷ không ở lại kinh thành, tiếp tục tìm cách minh oan cho Tống đại nhân sao?” Ta ngẫm nghĩ một lúc, vẫn lắc đầu:

“Kẻ nắm quyền không đổi, kiến hôi mãi mãi vẫn chỉ là kiến hôi. Qua một phen sóng gió, ta còn sống đã là may mắn lắm rồi. Cùng lắm trăm năm sau, ta tự xuống dưới bồi tội với huynh trưởng cũng được.”

Tiểu Chu đại nhân lại hóa thành hũ nút chẳng nói chẳng rằng.

 

Hắn đã quen với việc mỗi ngày có người chờ mình trở về.

Ta tuy miệng gọi hắn là “ đệ đệ ”, nhưng trong lòng vẫn luôn xem hắn là đứa em trai cần được che chở.

Bất ngờ nói lời chia ly, hẳn hắn thấy không dễ chịu. Nhưng thế gian này, làm gì có yến tiệc nào không tan?

Cho đến khi Tiểu Đào thu dọn xong hành lý, gọi ta lên xe ngựa, Chu Yến Thanh mới lên tiếng lần nữa:

“Chuyện của Hạ Lan Thành, Đại Lý Tự đã chính thức kết án rồi.” “Còn về vụ án của huynh tỷ, ta sẽ cố hết sức.”

“Tỷ… hãy bảo trọng.”

Để tránh rắc rối, Tiểu Đào không thuê xa phu, nên ta đang tự tay dắt ngựa. Nghe lời tạm biệt ấy, ta cũng chỉ xoay lưng khẽ vẫy tay, xem như đáp lại. 16

Ta chuẩn bị rất dư dả, vừa đủ để trở về quê nhà Dương Châu, tiện tay mua một căn viện tử nhỏ để an cư.

Năm đầu tiên, ta mở một tiệm y quán, giúp không ít người khỏi bệnh, thoát khỏi khổ đau.

Mỗi người mỗi cách cảm tạ. Có người sợ ta từ chối, lén đặt bánh ú tự gói trước cửa viện. Có người hào phóng hơn, mang nguyên rương vàng bạc đến biếu.

Lúc ấy ta mới dần hiểu được điều huynh trưởng từng nhắc đến mãi: “Y giả nhân tâm.”

Cuối năm, tin tức Nhiếp chính vương băng hà truyền đến, cùng lúc đó là chiếu chỉ treo thưởng hậu hĩnh khắp nơi tìm danh y cứu bệnh cho Thái hậu.

 

Những người ấy là hung thủ thực sự đã hại chết huynh ta.

Ta từng ngày từng đêm mong họ sớm xuống hoàng tuyền bầu bạn cùng huynh ta.

Vậy mà khi ngày ấy thực sự đến, ta lại chẳng thấy gợn sóng gì trong lòng. Chỉ cảm thấy trong viện hình như còn nhiều khoảng đất trống…

Nên trồng gì thì tốt nhỉ?

Năm thứ hai, không có chuyện gì đáng kể. Ta quyết định… trồng củ cải.

Năm thứ ba, củ cải nảy mầm, đâm chồi.

Không còn ân oán giằng xé, cuộc sống của ta bỗng trở nên thư thả lạ thường. Chỉ có điều, đứa nhỏ nhà bên cứ hay nhổ trộm củ cải của ta.

Tiểu Đào và con trai của tú tài đầu phố phải lòng nhau, đôi trẻ ríu rít ân ái khiến ta đau cả răng, đành phải bày ra dáng vẻ trưởng bối, lập tức đứng ra làm chủ, định hôn sự cho họ.

Ta mất khả năng sinh con từ sớm, gả Tiểu Đào đi chẳng khác nào gả con gái. Chỉ khác một điều duy nhất, con gái nhà khác cưới chồng, đâu có đứa nào còn phải lo rằng mẹ già có biết nấu ăn hay không…

Hôm đó, ta như thường lệ, dắt chó, trêu gà. Chuông gió trước viện chợt leng keng vang lên.

Một cố nhân xuất hiện.

Ba năm không gặp, Chu Yến Thanh sao lại cao thêm rồi?

“Chà, tiểu Chu đại nhân, thật là khách quý nha.” Ta nằm trên ghế mây, vẫy tay mời hắn ngồi, tiện rót cho hắn ly trà hoa cúc.

Hắn đi thẳng đến trước mặt ta, lặng lẽ ngồi xổm xuống, vừa đúng ngang vai ta.

 

“Huynh trưởng tỷ, được giải oan rồi.”

“Choang!”

Ly trà rơi vỡ tan, nước văng tung tóe.

Chu Yến Thanh cưỡi ngựa suốt mấy ngày đêm từ kinh thành đến Dương Châu, tay vẫn siết chặt bức thư đã nhàu nhĩ suốt dọc đường.

Hắn cẩn thận vuốt phẳng giấy, đưa đến trước mặt ta:

“Thái hậu băng hà, hoàng đế không còn bị trói buộc nữa, hạ lệnh tra lại rất nhiều vụ án cũ, trên thực tế là để kết tội Nhiếp chính vương, phế bỏ tước vị, dời khỏi hoàng lăng. Trong số đó… có vụ của Huệ phi. Chiếu thư chắc sắp tới Dương Châu rồi, ta nhân tiện đi ngang qua đây, ghé báo trước cho tỷ một tiếng.”

Ta đọc lướt một lượt, vẫn không thể tin vào mắt mình.

Chu Yến Thanh nói nghe nhẹ nhàng, nhưng ta biết, vụ án của huynh ta dính líu đến hoàng tộc, hắn chắc chắn đã bỏ ra không ít tâm huyết mới làm được đến nước này.

Ta thở dài một hơi, nghiêm giọng nhìn hắn:

“Vốn định đi đâu? Vì sao mà đi?”

Người vừa nãy còn thao thao bất tuyệt giờ lại ấp úng hồi lâu, thấp giọng đáp: “Thuyên chuyển… tới Thục Châu.”

“Ngươi bị giáng chức à?!”

Vì quá bất ngờ, giọng ta vỡ hẳn.

Nếu ta nhớ không nhầm thì Thục Châu và Dương Châu xa cách nghìn dặm, gì mà “tiện đường” chứ?

Hồi lâu sau, ta mới hoàn hồn, giọng mềm lại:

 

“Ngươi… thôi được rồi, ở lại ăn một bữa rồi đi.”

Phu quân của Tiểu Đào nhìn thư sinh văn nhược là thế, vậy mà tửu lượng chẳng thua gì Chu Yến Thanh.

Tới lúc trăng treo đầu ngọn liễu, hai tên sâu rượu mới luyến tiếc chia tay.

Chu Yến Thanh nhìn theo tri kỷ mới rời đi, rồi chậm rãi ngồi xuống bên ta, tay đặt trên đầu gối, ngoan ngoãn như một chú chó nhỏ.

Tửu lượng hắn tốt thật đấy.

“Thật ra, ta đến tìm tỷ là để rủ tỷ cùng ta đến Thục Châu.” Thu lại lời trên, tên này say rồi, mà còn say rất triệt để.

Ta thong thả phe phẩy quạt, uể oải nói:

“Thôi đi, khổ cùng ngươi một lần là đủ rồi.” “Ta nói nghiêm túc.”

Chu Yến Thanh tháo thanh Chu Tước đao bên hông, cúi đầu nhẹ nhàng vuốt ve vỏ đao.

“Từng có lúc ta cho rằng, mọi việc trên đời đều có thể dùng đao này để định đoạt.”

“Ba năm nay, ta đã điều tra rất nhiều vụ án nhỏ mà trước đây ta khinh thường. Lúc ấy mới phát hiện, ta đã sai lầm đến mức nào.”

“Ta không thể phá hết tất cả án oan, nhưng giờ ta chỉ mong những người tuyệt vọng ấy có thể được giúp đỡ, không bước sai đường.”

“Y thuật của tỷ là đệ nhất thiên hạ. Nếu chúng ta phối hợp, nhất định có thể làm được rất nhiều điều.”

 

“Biết đâu… sẽ không còn những người giống ca ca của tỷ, chết đi trong uất hận nữa.”

Hắn ngẩng đầu lên, ánh mắt chất chứa kỳ vọng.

Ta vẫn không bị lay động, thậm chí còn hơi buồn ngủ. Chu Yến Thanh thấy vậy, đành tung ra đòn sát thủ:

“Tỷ… thật ra chưa từng mang thai, đúng không?”

Cái ngáp của ta khựng lại giữa chừng, khó chịu thật sự.

Thằng nhóc này, không chỉ cao hơn rồi, mà còn thông minh hơn nữa. “Ồ? Sao ngươi biết?”

“Vì luật pháp của triều chúng ta quy định, nếu cố ý làm tổn hại thai nhi từ sáu tháng trở lên, bất kể là nam hay nữ, đều phải xử tử.”

Hắn nhìn ta bất đắc dĩ:

“Tống Minh Ngọc, tỷ quá tin vào bản thân, mà lại không tin vào Đại Lý Tự.” Ta ngáp xong, chẳng hề có vẻ gì là tội phạm ngoài vòng pháp luật:

“Vậy sao lúc đó ngươi không vạch trần ta?”

Ta đúng là chưa từng mang thai, vì sau mỗi lần gần gũi, Hạ Lan Thành đều bắt ta uống thuốc tránh thai, chưa từng cho ta cơ hội hoài thai.

Ta nói dối Chu Yến Thanh chỉ là để khiến bản thân thêm phần thê thảm, mong hắn buông tha vụ án kia.

Hắn không trả lời, chỉ lặng lẽ ngồi dưới đất nhìn trời. Lúc ta sắp thiếp đi, hắn đứng dậy.

Từ góc nhìn phía dưới của ta, bóng dáng hắn mang theo phần nào uy nghiêm của “Diêm Vương sống” năm nào.

 

“Sáng mai ta sẽ lên đường. Tỷ có cả một đêm để cân nhắc. Là tiếp tục an nhàn nơi này… hay cùng ta đi, để y thuật của tỷ thật sự cứu được muôn dân.”

17

Hôm sau, Chu Yến Thanh dậy từ trước khi gà gáy. Nói đúng hơn là… cả đêm hắn không hề chợp mắt.

Người như Tống Minh Ngọc, tính tình khó lường, lần này hắn thật sự đã gom hết can đảm để đánh cược một lần.

Tống Ứng Từ vang danh trong lòng thiên hạ, cuối cùng lại chết oan giữa chốn hậu cung tranh đấu.

Hắn cược rằng, ta sẽ không thể buông bỏ di nguyện của huynh trưởng. Nếu ta vẫn từ chối… hay là đánh ngất rồi mang đi luôn cho xong?

Nghĩ đến cảnh Tống Minh Ngọc tỉnh lại sau khi bị đánh ngất, Chu Yến Thanh lạnh hết cả sống lưng.

Thôi bỏ đi. Thật ra trong tiềm thức, hắn luôn cảm thấy Tống Minh Ngọc rất giống mẫu thân mình, thông minh, sắc sảo, ra tay chẳng hề nương tình.

Hắn nào có gan mưu tính với “mẹ mình”.

Ra đến sân viện, lòng Tiểu Chu đại nhân lập tức lạnh đi một nửa.

Cửa phòng của Tống Minh Ngọc đóng chặt, nhìn kiểu gì cũng không giống như có ý ra tiễn.

Chu Yến Thanh cau mày, cứng đầu đứng nhìn cánh cửa gỗ như chờ điều kỳ tích xảy ra.

Thế rồi, khi ta vừa ăn sáng xong trở về, liền thấy một màn như sau:

 

Chưa kịp cất lời, Chu Yến Thanh đã lên tiếng trước.

“Chào…”

Nhưng nhìn lại đối diện hắn, rõ ràng là chẳng có ai.

Hắn nổi điên đến mức đang giận dỗi… với không khí sao? “Ngươi làm gì thế? Không phải nói đi rồi à?”

Người kia quay đầu lại với tốc độ nhanh đến mức như để lại tàn ảnh, gương mặt căng thẳng bỗng buông lỏng:

“Tỷ muốn cùng đi không?”

“Ai thèm đi cùng ngươi! Ta chỉ là bỗng dưng muốn đến Thục Châu chơi một chuyến thôi, không được sao?”

“Nếu chỉ là đi chơi, cần gì mang theo cả giấy chứng nhận sở hữu nhà?” “…Liên quan gì đến ngươi! Nhóc con, lo mà đánh xe cho tốt đi!”

Tiếng cãi cọ rôm rả mỗi lúc một xa, chỉ để lại trong sân một góc viện yên tĩnh.

Kỳ thực… cho dù Chu Yến Thanh không đến, ta cũng đã chán ở lại Dương Châu.

Đã nói rồi mà, Tống Minh Ngọc muốn đi đâu, thì đi đó. (Hết)


❤️ Cảm ơn bạn đã ghé thăm vonggianglau.top. Chúc bạn có những phút giây thư giãn tuyệt vời!